Tỉnh Quảng Ninh sở hữu Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long đã 3 lần được UNESCO công nhận. Tỉnh cũng đang phối hợp chặt chẽ với hai tỉnh Hải Dương và Bắc Giang đệ trình hồ sơ để Ủy ban Di sản Thế giới công nhận Quần thể di sản Yên Tử – Vĩnh Nghiêm – Côn Sơn, Kiếp Bạc (gọi tắt là Yên Tử) là di sản văn hóa thế giới. Với nỗ lực mang tên Yên Tử, Quảng Ninh đang đứng trước cơ hội sở hữu di sản thế giới thứ hai, cùng với đó là yêu cầu đánh giá những tác động có tính hai mặt từ hiệu ứng UNESCO lên du lịch Quảng Ninh.
Vịnh Hạ Long: 30 năm di sản thế giới
Công ước bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới được UNESCO thông qua vào năm 1972, ghi danh các di sản thế giới, nhằm mục đích bảo tồn các di sản văn hóa và thiên nhiên của nhân loại cho thế hệ mai sau. Với danh hiệu UNESCO, di sản được ghi danh đặt dưới cơ chế giám sát, bảo vệ cao nhất, đồng thời cơ quan quản lý di sản cũng có thể tiếp cận với các trợ giúp về tài chính và chuyên môn từ phía UNESCO. Có thể nói, danh hiệu di sản thế giới của UNESCO vừa là vương miện vừa là trách nhiệm với những quốc gia và địa phương có di sản được ghi danh.
Tính đến năm 2024, có tổng số 195 quốc gia trên toàn thế giới tham gia vào Công ước bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, trong đó có 1.223 di sản thế giới của 168 quốc gia được ghi danh. Việt Nam hiện có 8 di sản UNESCO về văn hóa, thiên nhiên và di sản hỗn hợp. Trong đó Quảng Ninh sở hữu một di sản thiên nhiên thế giới là Vịnh Hạ Long. Kể từ khi được công nhận lần đầu tiên vào năm 1994 về giá trị thẩm mỹ, đến nay Vịnh Hạ Long đã có 2 lần được UNESCO vinh danh, lần lượt là về giá trị địa chất địa mạo (năm 2000) và di sản thiên nhiên thế giới mở rộng bao gồm cả Quần đảo Cát Bà (năm 2023).
Trong 3 lần này, lần công nhận đầu tiên có tác động và ảnh hưởng to lớn nhất tới du lịch của Quảng Ninh. Theo nhận định của Uỷ ban Quốc gia UNESCO của Việt Nam trong tờ trình gửi Thủ tướng Chính phủ ngày 27/12/1994, sự kiện Vịnh Hạ Long được công nhận là Di sản thế giới tại Kỳ họp lần thứ 18 của Hội đồng Di sản thế giới ngày 14/12/1994 “đã nâng tầm vóc giá trị của di sản này, đặt nó vào trong những mối quan hệ có tính toàn cầu. Đây không chỉ đơn thuần là sự kiện có ý nghĩa lớn về văn hoá mà còn mang ý nghĩa chính trị và kinh tế lâu dài đối với công cuộc phát triển của đất nước…”.
Ông Nguyễn Văn Tuấn, Giám đốc Sở Du lịch Quảng Ninh giai đoạn 2001-2005, nguyên Tổng Cục trưởng Tổng cục Du lịch Việt Nam, đánh giá: “Du lịch Quảng Ninh chỉ thực sự chuyển mình và tạo ra bước phát triển mới từ khi Vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Từ thời điểm đó, Quảng Ninh luôn là một trong những địa phương tiên phong, đi đầu của ngành du lịch Việt Nam”.
Riêng với du lịch của Vịnh Hạ Long, lượng khách tham quan tăng từ trên 236.000 lượt khách năm 1996 lên gần 3,1 triệu lượt khách của năm 2016. Như vậy, trong 20 năm, lượng khách tới Hạ Long đã tăng gấp 13 lần. Đỉnh điểm năm 2019, Vịnh Hạ Long đón gần 4,4 triệu lượt khách tham quan, trong đó có gần 2,9 triệu lượt khách quốc tế.
Cùng với nỗ lực phát triển đưa du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn, tăng cường kết nối giao thông và làm mới, đa dạng hóa các sản phẩm du lịch thì danh hiệu di sản UNESCO đóng góp một phần không nhỏ trong việc truyền thông, quảng bá điểm đến Hạ Long – Quảng Ninh tới đông đảo du khách trong và ngoài nước, đồng thời tạo sự khác biệt cho điểm đến như Vịnh Hạ Long.
Tiến sĩ Trần Đức Nguyên, Trưởng khoa Di sản Văn hóa, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, lý giải: “Khi một di sản thế giới được ghi danh, nó sẽ tạo ra một hiệu ứng mà người ta gọi là hiệu ứng UNESCO hay hiệu ứng di sản. Đây cũng như một sự chứng thực cho những giá trị của di sản mà dựa vào đó du khách sẽ tìm đến để tìm hiểu những đặc sắc của những di sản đó. Chính vì thương hiệu di sản UNESCO mà các địa phương sẽ có cơ hội phát triển, đặc biệt là về du lịch”.
Yên Tử: Đếm ngược tới mùa hè Sofia
Vịnh Hạ Long là ví dụ điển hình mà du lịch Quảng Ninh có thể soi chiếu khi bàn về hiệu ứng UNESCO. Đó là câu chuyện kéo dài từ quá khứ đến hiện tại và sẽ tiếp tục có ý nghĩa trong tương lai. Khi Vịnh Hạ Long bước qua dấu mốc 30 năm danh hiệu di sản, du lịch Quảng Ninh tiếp tục đặt kỳ vọng bứt phá vào một danh hiệu UNESCO khác. Đó là Yên Tử. Tháng 7/2025, tại cuộc họp của UNESCO tại thành phố Sofia (Bulgaria) cùng với những di sản khác, các quốc gia thành viên của Ủy ban di sản Thế giới sẽ bỏ phiếu về việc ghi danh. Đây sẽ là câu trả lời cho nỗ lực chung của 3 địa phương của Việt Nam và đặc biệt là nỗ lực kéo dài hơn một thập kỷ của Quảng Ninh kể từ khi ý tưởng xây dựng hồ sơ manh nha.
Có thể nói, Quần thể di sản Yên Tử đang tiến rất gần tới danh hiệu di sản UNESCO. Các địa phương nơi có di sản cần phải làm gì để chuẩn bị, sẵn sàng cho một giai đoạn mới của sự phát triển? Đây là câu hỏi đặt ra với Việt Nam, đặc biệt là 3 tỉnh Quảng Ninh, Bắc Giang và Hải Dương. Hơn hết là thành phố Uông Bí (tỉnh Quảng Ninh), nơi tập trung phần lớn di tích của Quần thể di sản được đề cử với hệ thống chùa, am, tháp gắn liền với sự phát triển của Phật giáo Trúc Lâm. Lượng khách đổ về Uông Bí sẽ tăng đột biến trong một thời gian ngắn. Thay vì đón hơn 3 triệu khách du lịch mỗi năm, số lượng khách đến Yên Tử được dự đoán sẽ tăng gấp nhiều lần. Đây sẽ vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với sự phát triển bền vững của du lịch Uông Bí.
Tập trung khai thác những tiềm năng, lợi thế văn hóa vật thể và phi vật thể để tạo thêm sản phẩm du lịch khi du khách đến Yên Tử là một trong những giải pháp mà các chuyên gia đầu ngành về văn hóa và du lịch khuyến nghị thành phố. PGS,TS Phạm Thị Thu Hương, Hiệu trưởng Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, cho rằng: Tour du lịch có sự kết nối giữa Yên Tử với các di tích khác ở khu vực này, cùng với đó là việc tạo ra sản phẩm văn hóa mang tính đặc trưng để du khách có thể đến tham quan ở những vùng đó trước khi và sau khi đến với khu di tích và danh thắng Yên Tử. Ở cùng một thời điểm, ta có thể chia sẻ bớt số lượng du khách. Người dân có thể tạo ra được nhiều việc làm khi chúng ta có sản xuất, có đưa ra được những sản phẩm mang tính văn hóa đặc trưng của vùng miền.
Trên cơ sở nhận diện một cách toàn diện những giá trị văn hóa của Uông Bí, thời gian qua một số mô hình phát triển du lịch văn hóa và du lịch cộng đồng đã được hình thành tại Uông Bí. Tháng 6/2024, UBND xã Thượng Yên Công (TP Uông Bí) ban hành Kế hoạch xây dựng Làng du lịch cộng đồng tại thôn Khe Sú 2, xã Thượng Yên Công, tập trung phát huy các giá trị văn hóa dân tộc Dao Thanh Y gắn với phát triển du lịch dưới chân núi Yên Tử. Mục tiêu là đến năm 2025 có thể hình thành được các khu homestay trải nghiệm, các mô hình phục vụ ẩm thực, phát triển nghề truyền thống của người Dao, phấn đấu đón được từ 5.000 tới 7.000 khách mỗi năm.
Để phát huy các giá trị văn hóa vốn có, gắn với phát triển du lịch tại Yên Tử trước thời cơ mới, ông Nguyễn Văn Thành, Phó Chủ tịch Thường trực UBND TP Uông Bí, cho biết: Thành phố đã quan tâm phục dựng các lễ hội truyền thống trên địa bàn như Lễ hội Đình – Chùa Đạp Thanh, Bí Giàng; Lễ hội Đền chùa Hang Son song hành với điểm di tích và danh thắng Yên Tử để thu hút khách thập phương về với thành phố Uông Bí và cũng là để phát huy những giá trị lịch sử, văn hóa để phổ biến, quảng bá và giữ gìn trường tồn các giá trị văn hóa này.
Cùng với kết nối với các điểm đến trong khu vực thuộc phạm vi di sản. Để tận dụng những cơ hội tạo ra từ hiệu ứng UNESCO, việc kết nối hai di sản thuộc Quảng Ninh cũng cần được quan tâm để tạo ra sự “cộng hưởng” lớn hơn từ đó tăng sức hút cho điểm đến Quảng Ninh trên quy mô quốc tế, đồng thời kéo dài thời gian lưu trú của du khách.
Theo